Kinh tế Việt Nam vật vã đi lên

Hình ảnh nhọc nhằn được nguyên Bộ trưởng Thương mại Trương Đình Tuyển sử dụng trong tham luận mở đầu Diễn đàn Kinh tế Mùa thu, một trong những sự kiện được giới chuyên gia trông đợi nhất trong năm.

Khai mạc sáng nay 27/9 tại Ninh Bình, cùng với diễn đàn Mùa xuân cách đây nửa năm, sự kiện do Ủy ban Kinh tế của Quốc hội tổ chức thường niên quy tụ được những chuyên gia hàng đầu trong nước và quốc tế. Đây cũng được xem là diễn đàn, nơi họ có thể trao đổi một cách khá thẳng thắn quan điểm, qua đó góp ý, phản biện trực diện cho những người làm chính sách.

Diễn ra trong bối cảnh số liệu kinh tế – xã hội 9 tháng vừa được công bố, diễn đàn sẽ dành gần nửa thời gian để bàn về tình hình 2014-2015, trước khi đi sâu hơn vào đánh giá tái cơ cấu nền kinh tế giai đoạn 2012-2014.

Tổng cầu yếu là trở lực lớn với kinh tế Việt Nam hiện nay. Ảnh minh họa: Anh Quân
Tổng cầu yếu là trở lực lớn với kinh tế Việt Nam hiện nay. Ảnh minh họa: Anh Quân

Được chọn mở đầu kỷ yếu diễn đàn, tham luận với chủ đề “Kinh tế Việt Nam 2014 và triển vọng 2014” của nguyên Bộ trưởng Thương mại Trương Đình Tuyển là phần đề dẫn quan trọng cho tuyến nội dung này của diễn đàn.

Thông qua việc điểm lại tác động của khủng hoảng kinh tế thế giới, diễn biến tại Việt Nam giai đoạn 2008 đến nay, cũng như chỉ ra các nguyên nhân tác động, chuyên gia này nhận định nền kinh tế đã thoát đáy song đang “vật vã để đi lên” với tổng cầu còn yếu. Trong khi đó, nợ xấu không được giải quyết hiệu quả và đang có xu hướng tăng lên, tín dụng cũng không đến được với nền kinh tế, dẫn đến tốc độ phục hồi chậm…

Nhận định này của vị chuyên gia kỳ cựu nhận được khá nhiều chia sẻ trong các tham luận khác tại diễn đàn. Theo đó, trong nửa đầu năm 2014, nền kinh tế đã xuất hiện một số tín hiệu tích cực như tăng trưởng GDP cao hơn so với cùng kỳ 2013, lạm phát thấp hơn nhiều so với mục tiêu 7%; xuất khẩu tăng gần 15%, giúp cán cân thương mại thặng dư khoảng 1,3 tỷ USD; tổng đầu tư toàn xã hội, doanh số bán lẻ… đều có tăng trưởng; ngân sách dự báo đạt kế hoạch đề ra…

Tuy nhiên, một vấn đề được các chuyên gia thống nhất ở mức cao là khu vực doanh nghiệp vẫn khó khăn (chỉ số quản trị mua hàng PMI vẫn trên ngưỡng trung bình 50 nhưng đã giảm 4 tháng liên tiếp). Đáng quan ngại hơn là khu vực doanh nghiệp tư nhân ngày càng yếu đi, thể hiện ở tỷ trọng xuất khẩu giảm. Hệ thống phân phối cũng bị các nhà đầu tư nước ngoài đánh chiếm. Khối FDI hiện đã chiếm tỷ trọng gần 70% giá trị sản xuất công nghiệp cả nước.

Ngay trong những tín hiệu được coi là tích cực nêu trên, dù tăng trưởng GDP đã cao hơn, ông Trương Đình Tuyển cho rằng khả năng đạt mục tiêu 5,8% khó xảy ra. Nếu muốn đạt con số này, nền kinh tế không có cách nào khác là đẩy mạnh khai thác dầu thô, than… như đã từng làm và cho thấy là không hiệu quả.

Một loạt những chỉ báo khác như tăng trưởng tín dụng ý ạch, doanh nghiệp giải thể, ngừng hoạt động tăng và ngay cả việc lạm phát thấp cũng được các chuyên gia đưa ra một lý giải chung là tổng cầu yếu.

Nghiên cứu sâu hơn ở góc độ tổng cầu và tổng cung này, nhóm chuyên gia Trần Thọ Đạt – Nguyễn Việt Hùng – Hà Quỳnh Hoa tại Đại học Kinh tế Quốc dân cho rằng phía cầu đã có những tín hiệu lạc quan hơn và có xu hướng tăng trở lại. Tuy nhiên, để có sự bứt phá, cần phải có tác động từ chính sách tài khóa và tiền tệ của Chính phủ.

Trong khi đó ở phía cung, các học giả cho rằng chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) đã tăng nhưng chưa có sự bứt phá rõ ràng. Điều này cùng với xu hướng tăng của chỉ số hàng tồn kho và giảm của PMI cho thấy điều kiện sản xuất và kinh doanh của các doanh nghiệp hiện tại vẫn còn khó khăn.

Đứng trước điểm nghẽn như vậy, vấn đề đặt ra là lựa chọn chính sách như thế nào được đa số các tham luận quan tâm và hiến kế. Bên cạnh những giải pháp lâu dài như đẩy mạnh tái cơ cấu, cải cách thể chế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, một giải pháp ngắn hạn được không ít ý kiến nhắc tới là tác động tăng tổng cầu như nới lỏng tiền tệ, tăng chi tiêu…

Giữa những ý kiến này, tham luận của 2 tác giả Bùi Trinh – Nguyễn Trí Dũng gây được nhiều chú ý khi cho rằng việc tác động lên tổng cầu – nếu có, sẽ có những điểm tương đồng như học thuyết kinh tế Abenomics đang được Nhật Bản áp dụng, bao gồm 3 mũi tên: kích thích tài chính, nới lỏng tiền tệ và cải cách cơ cấu.

Theo Bùi Trinh và Nguyễn Trí Dũng, nếu tiếp tục kích cầu thì chỉ nên thực hiện ở khu vực tư nhân. Tuy nhiên, hệ số sinh lời của khối này ngày càng giảm, xuống mức khoảng trên 1%. Trong khi lãi suất phải trả ngân hàng trên dưới 10%. Do đó, về mặt kinh tế, các doanh nghiệp này không có động cơ đầu tư mở rộng sản xuất.

Tuy vậy, chương trình này chỉ có thể thành công dựa trên nền tảng sản xuất (phía cung) rất mạnh mẽ, hàng hóa nhiều với chất lượng cao và giá cả thấp. Điều này khác hoàn toàn với Việt Nam khi phía cung vẫn còn yếu kém, sản xuất cơ bản là gia công. Việc can thiệp vào phía cầu khi đó được các chuyên gia này cho rằng không làm tăng sản lượng, mà chỉ làm nền kinh tế đứng trước nhiều rủi ro về vĩ mô (lạm phát, nhập siêu…).

Do đó, các chuyên gia này cho rằng nhà điều hành cần nhất quán quan điểm hy sinh những mục tiêu ngắn hạn (tăng trưởng…) để dũng cảm từ bỏ những chính sách quản lý tổng cầu, kiên trì đẩy mạnh các biện pháp tái cơ cấu nền kinh tế – về cơ bản chính là chính sách trọng cung.

“Đó mới là “kế lâu bền” để đẩy sản lượng tiềm năng lên mức cao hơn và đạt được sự tăng trưởng bền vững, lâu dài, hơn mà không chỉ là “kích cầu” ngắn hạn để năm nay hoặc năm tới có được mức tăng trưởng như ý để làm đẹp báo cáo”, tham luận viết.

Theo Vneconomy

Bình luận